“Học trò xứ Quảng ra thi” như một minh chứng cho việc hiếu học, “bụng đầy chữ nghĩa” để ra kinh ứng thí. Nhiều thư tịch xưa đã ca ngợi về truyền thống giáo dục của vùng đất xứ Quảng: “học trò thì chăm học hành” (Ô châu cận lục); “do ở núi sông thanh tú cho nên nhiều người tư chất thông tuệ dễ học hành” (Đại Nam nhất thống chí). Những “học trò” này sau khi đỗ đại khoa đã dốc sức “kinh bang tế thế”, truyền dạy đạo lý cho đời, đề xuất tư tưởng canh tân. Đặc biệt trong số đó, có những người con xứ Quảng đã từng là thầy dạy học của các vị vua triều Nguyễn.
Phong trào Cần vương ở các tỉnh Tả trực kỳ Nam, Ngãi, Bình, Phú, Khánh, Thuận có một khuôn mặt nổi bật mà các ngòi bút chép sử thực dân Pháp và sử quan triều Đồng Khánh tay sai đã ghi lại bằng những dòng chữ đầy ấn tượng. Đó là Nguyễn Duy Hiệu, lãnh tụ Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, một Phó bảng từng là thầy dạy học Kiến Phước khi vua này còn “tiềm để”.
Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887) chỉ sống có 40 năm, ông thọ hình ở tuổi nhi bất hoặc. Là con một phú hào, ông được học hành đến nơi đến chốn với các bậc danh sư Lê Tấn Toán, Nguyễn Đình Tựu. 16 tuổi (1863), ông đậu Tú tài, 1876 đậu Cử nhân, 1879 thi Hội ông đậu Phó bảng.
“Từ ngày Tây lại cửa Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu”
Cẩm Thanh quê tôi bốn bề sông nước với nhiều sông rạch chằng chịt, là vùng cửa sông ven biển nước lợ, với những rặng dừa nước xanh tươi, loài cây đặc trưng của vùng cửa biển, nơi đây còn thích hợp cho các loài thủy hải sản sinh trưởng phát triển như tôm, cua, cá, ghẹ… và một loại khác không thể không nhắc đến là con cáy đặc trưng của vùng nước lợ.
Nhiều cơ hội hợp tác quốc tế mở ra, không chỉ ở phạm vi phát triển kinh tế. Ngay ở câu chuyện bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa bản địa, lưu giữ di sản… đều cần sự chung tay từ cộng đồng quốc tế…
Năm 1877, sau những chuyến nghiên cứu khảo sát tuyến đường giao thương trên đường bộ thời cổ đại giữa Trung Quốc và phương Tây, nhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen nhận thấy loại hàng hóa chủ yếu được buôn bán,.... vận chuyển trên tuyến đường nầy là tơ lụa nên đã đưa ra thuật ngữ Con đường tơ lụa [die Seidenstrasse (tiếng Đức), TheSilk Road (tiếng Anh)](1). Về sau, các nhà khoa học đều dùng tên gọi con đường tơ lụa để chỉ tuyến đường giao thương thời cổ đại xuất phát từ Trung Quốc qua vùng Nam Á, Tây Á nối liền sang châu Âu và bắc Phi, bao gồm tuyến đường trên bộ và trên biển.
Vốn hình thành và phát triển từ một đô thị thương cảng cổ ở vùng “cửa sông, ven biển”, ngoài những đặc điểm chung như nhiều địa phương khác, làng quê và nông thôn Hội An còn có đặc trưng riêng: đó là phố trong làng và làng trong phố.
Trong cuốn sách “Những di chỉ của ký ức” (Les lieus de mémoire), Pierre Nora có viết: “Con người dù bất cứ ở thời đại nào cũng đều mang trong mình những ký ức của thời đã qua, những ký ức đó đọng lại trong tâm thức để trở thành cái gọi là di sản và truyền thống. Chính qua những ký ức mà con người cảm nhận được lịch sử.
Trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng nghiệp…vốn dĩ đã rất phổ biến thì tín ngưỡng thờ cúng âm hồn cũng có một vai trò rất quan trọng của cộng đồng cư dân Hội An, bên cạnh các loại hình tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ Ngũ hành, thờ Cá Ông, thờ Thành Hoàng, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng liên quan đến nghề.
1. Hội quán Trung Hoa và các hoành phi, liễn đối
Người Hoa ở Hội An có nguồn gốc từ gốc từ các địa phương ven biển phía Đông Nam của Trung Hoa. Họ lập ra bốn hội quán riêng của bốn bang: hội quán Phúc Kiến, hội quán Triều Châu, hội quán Quỳnh Phủ và hội quán Quảng Triệu và một hội quán chung: hội quán Trung Hoa.
Trong quá trình khai hoang lập làng diễn ra từ lâu đời trong lịch sử của cộng đồng cư dân Việt Nam, song hành với đó là nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng của con người với những mong ước về sự bình an nơi vùng đất mới là một trong những điều không thể thiếu. Trong đó, cộng đồng cư dân làng Cẩm Phô xưa (thuộc tổng Phú Triêm hạ - huyện Diên Phước – phủ Điện Bàn – tỉnh Quảng Nam) cũng không ngoại lệ. Theo đó, nhiều công trình tâm linh, tín ngưỡng đã được tạo dựng phục vụ cho đời sống văn hóa, tâm linh của cư dân bản địa, trong đó có miếu Trung Giang hạ.
MỞ ĐẦU
Năm 1990, sau khi những mảnh gốm sứ Hizen của Nhật Bản được xác nhận trong số gốm sứ khai quật ở Hội An, một phố cảng ở Trung bộ, Việt Nam (1), các nhà nghiên cứu Việt Nam đã có nhiều báo cáo về việc phát hiện gốm sứ Hizen.
Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn xã đảo Tân Hiệp - Cù Lao Chàm có 37 di tích thuộc loại hình di tích lịch sử, di tích khảo cổ học, di tích kiến trúc nghệ thuật và danh thắng. Trong số 37 di tích đó có 7 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 1 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, 29 di tích còn lại nằm trong danh mục bảo vệ của thành phố Hội An.
Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn, quan trọng của nhà Nguyễn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm, từ năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đến khi hoàn thành và khắc in xong vào năm Duy Tân thứ 3 (1909)
MỞ ĐẦU
Theo kết quả điều tra khai quật khu phố cổ Hội An, đã tìm thấy rất nhiều đồ gốm sứ Trung Quốc, đồ sứ Hizen, đồ gốm nung không tráng men (đồ nung ở nhiệt độ cao không tráng men, dưới đây gọi tắt là đồ gốm) và đồ đất nung của Việt Nam.
Một số tư liệu Hán Nôm liên quan đến nghề yến Thanh Châu (Hội An) vừa được phát hiện cho thấy, các vua triều Nguyễn ngay từ rất sớm đã chú trọng xác lập chủ quyền biển đảo và thực hiện sự kết hợp giữa khai thác kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Đến tổ 2 của khối An Bàng, phường Cẩm An hỏi đường đến cây đa cổ thụ trong xóm sẽ được người dân nơi đây, từ người già đến trẻ nhỏ đều có thể chỉ dẫn để đi đến tận nơi. Đó là một cây đa to lớn nằm trong khu dân cư; thân cây vươn cao, tán rộng, tỏa bóng mát trong phạm vi khá rộng.
Hội An vốn là tỉnh lỵ của Quảng Nam, nơi tập trung đầu não ngụy quân, ngụy quyền thời chống Pháp (1945 - 1954). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), ngụy quyền Quảng Nam và các cơ quan đầu não cấp tỉnh đóng hành dinh tại Hội An. Điều đó cho thấy sự quan trọng về vị thế địa - chính trị của Hội An trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc Việt Nam.