Trong danh mục 9 món ăn này, tại Hội An ít nhất có 4 món mà du khách không thể bỏ qua khi đến nơi đây đó là bánh mì, bánh xèo, cao lầu và các loại chè. Ban biên tập Website xin trích giới thiệu bài viết này trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật ẩm thực (Số 156/5 - 2015)
Trước khi người Việt có mặt ở Hội An thì đã có Cù Lao Chàm và Cửa Đại Chiêm - sách xưa gọi là Đại Chiêm môn hay Đại Chiêm hải khấu, người Việt gọi vắn tắt là Cửa Đại - cửa ngỏ miền Amaravati của Vương quốc Champa, không xa đất thánh Mỹ Sơn và các kinh đô Sinhapura (Trà Kiệu) và Indrapura (Đồng Dương). Dấu vết của người Chàm để lại ở vùng Hội An là những ngôi miếu Bà Lồi, miếu Bà Dàng và nhiều pho tượng hiện bày tại Viện Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chàm ở thành phố Đà Nẵng.
Ngày nay nhìn lên bản vẽ bình đồ đô thị Hội An chúng ta thấy đó là một điểm tụ cư nằm dọc theo bờ sông Thu Bồn tức sông Củi, tức sông Cái trong sử sách. Sông Thu Bồn giới hạn phía Nam đô thị, một dòng nước nhỏ đổ vào sông Thu Bồn hình thành một ngã ba sông với cây cầu Lai Viễn bắc qua nhánh sông nhỏ đó là giới hạn về phía tây của đô thị, về phía đông là biển với cửa Đại tức Cửa Đại Chiêm trong sử sách. Duy chỉ mặt bắc không có sông mà có một dải đất lồi rồi đến núi. Đó là một đô thị ven sông.
Quảng Nam có đa dạng tài nguyên biển đảo, trong đó vùng biển Cù Lao Chàm (xã Tân Hiệp, TP.Hội An) vừa là khu bảo tồn biển quốc gia vừa là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Chung tay bảo vệ tài nguyên biển đảo là việc làm rất cần thiết đã và đang đem lại kết quả tích cực.
"Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”: Câu ca ấy nhắc nhở về hai trung tâm thương nghiệp của nước ta ở Đàng Ngoài trong những thế kỷ XVII - XVIII. Thời bấy giờ ở Đàng Trong có Hội An sánh ngang và về mặt nào đó còn phát triển hơn cả Kinh kỳ, phố Hiến. ít nhiều trên sách vở các địa danh này đã được nhắc đến nhưng hình như các di tích ở đó chưa gây được sự chú ý đúng mức. Trải qua thời gian khó tìm thấy dấu vết của phố Hiến, Kinh kỳ xưa ở Hưng Yên, Hà Nội này. Riêng Hội An may mắn thay di tích còn lại tương đối nguyên vẹn.
Trương Đình Quang, khởi đầu là một người độc hành. Và về sau, vẫn mãi là kẻ độc hành. Nẻo đường nghệ thuật người nhạc sĩ già đã và đang bước đi ấy, lắm những gập ghềnh. Bạn đồng hành, đã theo tháng năm rời bỏ ông…
Hơn 40 năm trôi qua, nhưng trong ký ức các chị Phạm Thị Thạnh, Võ Thị Hóa và Nguyễn Thị Kiểm - ba trong số 9 thành viên của đội thiếu niên hợp pháp “Chim chèo bẻo” xã Cẩm Thanh, thị xã Hội An năm xưa vẫn còn đó những ngày say mê đem tiếng hát lời ca, điệu múa phục vụ nhiệm vụ cách mạng trong vùng địch. Tuổi mười bốn, mười lăm, các chị đã trở thành những thiếu niên dũng cảm, bất chấp hiểm nguy, đưa đội thiếu niên “Chim chèo bẻo” Cẩm Thanh trở thành một tổ chức cách mạng vang tiếng ở Hội An một thời...
Chùa Bà Mụ, hay còn gọi là miếu (cung) Cẩm Hà - Hải Bình, Hội quán Triều Châu và Lai Viễn Kiều (Chùa Cầu) là những di tích kiến trúc nghệ thuật đặc biệt trong quần thể di tích Đô thị cổ Hội An. Và Hội An đang tìm cách bảo tồn, gìn giữ 3 kiến trúc được Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp công nhận là những công trình kiến trúc đẹp nhất Việt Nam vào những năm 1930 này.
I/ Từ con đường “Thượng Chùa Cầu - Hạ Ông Bổn”:
Đối với cư dân Cù Lao Chàm, bên cạnh ngư nghiệp, nông nghiệp thì một số nghề liên quan đến rừng núi cũng là một trong những lợi thế của xã đảo như nghề đốn củi, bứt mây, hái cây lá rừng để dùng làm nước uống, để ăn…
Lịch sử Việt Nam cho chúng ta thấy rằng vào thế kỷ XVII tiếng Việt đã là một ngôn ngữ giàu đẹp, đủ diễn đạt mọi mặt của cuộc sống lúc bấy giờ.
Vào cuối thế kỷ XVII, trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự, nhà sư Thích Đại Sán đã mô tả: Cù Lao Chàm còn có tên là Cú Lũ, là nơi cung cấp nguồn củi, nước dự trữ cho tàu thuyền qua lại trên vùng biển Đông và cũng là nơi tránh bão của các tàu thuyền lớn lưu hành trên biển Đông. Lúc bấy giờ, cư dân của Cù Lao Chàm có khoảng 300 tráng đinh, chưa kể người già và trẻ con, người dân sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, lấy củi, trồng rau. Trong nhiều tư liệu thư tịch cổ khác cũng mô tả ở Cù Lao Chàm có nghề đánh bắt thuỷ hải nhưng không nói rõ cụ thể là nghề gì.
Trong quá trình Nam tiến dưới thời các chúa Nguyễn, tuy không lấy Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý - Trần, nhưng các chúa Nguyễn lại lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho chính sách an dân trị quốc. Đi đến đâu người Việt cũng được chúa Nguyễn cho xây dựng chùa để thờ Phật. Đây là một vấn đề tất yếu, bởi lẽ tinh thần Phật giáo đã thấm sâu vào trong tư tưởng tình cảm của mỗi người dân Việt. Vì thế, kể từ khi đất Quảng Nam thành lập, đã thấy có bóng dáng của những ngôi chùa cũng như các vị Thiền sư đến đây hoằng hóa. Tại nơi đây, các dòng Thiền bắt đầu được truyền bá và phát triển mạnh mẽ, nhưng để lại dấu ấn đặc biệt và tồn tại phát triển phải kể đến Thiền phái Lâm Tế với vai trò của Thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728) và Thiền phái Tào Động với vai trò của Thiền sư Thích Đại Sán - Thạch Liêm (1633 - 1704).
Tên làng Hội An được tìm thấy đầu tiên, với một niên đại sớm nhất trong các tài liệu cổ còn để lại là chữ khắc trên tấm bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung” ở động Hoa Nghiêm, trong lòng khối đá Ngũ Hành Sơn, bia được lập vào năm Canh Thìn - 1640. Chúng tôi đã khám phá nhiều bí ẩn ở trên bia, trong đó tên Hội An đã được ba lần nhắc đến cùng tên bốn người ở làng này là Nguyễn Văn Triều, Nguyễn Thị Đức, Nguyễn Thị Ngưỡng, Châu Thị Tân, mỗi người cúng 10 quan tiền để dựng chùa.
Hiện nay một số ngôi nhà trong phố cổ có treo các biển của vua ban, các tấm biển đó thường khắc các chữ Hán lớn “hiếu nghĩa khả phong”, “hiếu nghĩa khả gia”, “tiết hạnh khả phong” .v.v.. khi tìm hiểu về nội dung cũng như ý nghĩa của các tấm biển được vua ban này, chúng tôi có những phát hiện rất thú vị.
Ngày 26/5/2009, Cù Lao Chàm - Hội An vinh dự trở thành Khu dự trữ sinh quyển Thế giới. Hiện nay, Cù Lao Chàm là một địa danh du lịch hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế. Đến với Cù Lao Chàm, một địa chỉ tham quan thú vị gắn liền với nghề khai thác yến sào nổi tiếng ở Hội An đó là miếu Tổ nghề Yến. Với những giá trị nổi bật về mặt kiến trúc nghệ thuật, lịch sử văn hóa và khoa học, ngôi miếu đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia vào năm 2006. Riêng, vào năm 2014, cây Kén và cây Nánh cổ thụ ở sân miếu đã được công nhận là cây di sản cùng với cây đa và 03 cây ngô đồng đỏ khác ở Cù Lao Chàm.
Hội An, nơi còn giữ lại được hầu như nguyên vẹn các phố cổ với phong cách kiến trúc nghệ thuật từ các thế kỷ XVI - XVII hiếm hoi và vô cùng quí giá, chỉ với bấy nhiêu thôi cũng đã xứng đáng gọi Hội An là “thành phố bảo tàng” và là một “thành phố bảo tàng” duy nhất trên đất nước ta. Bởi vì sự tồn tại diệu kỳ của Hội An, bởi vì Hội An đã vượt qua thời gian hàng thế kỷ, vượt qua binh hỏa của chiến tranh triền miên, để đến với chúng ta ngày nay với giá trị cổ kính diệu kỳ. Hội An xứng đáng được hưởng mọi đặc ân và của hết thảy mọi sự gia phong.
Theo một số tư liệu cho biết, tộc Trần Trung là một trong bốn tộc, cùng với tộc Huỳnh, Lê, Nguyễn đã có công khai phá đất đai, lập nên làng Cẩm Phô, một trong những làng xã được thành lập khá sớm ở Hội An trong lịch sử. Văn bia chữ Hán hiện còn ở di tích cũng có đoạn ghi chép được tạm dịch là: “…Tộc ta từ thời Đông A (nhà Trần), đến đời thái thủy tổ là phó đề đốc lãnh tước Thiêm Lộc hầu, thụy là Cần Thận, ông phát tích là người Thanh Hóa, di cư đến phương Nam, đến đời con là Trần Trung Lễ thì được tốt đẹp, vào năm Cảnh Hưng triều Lê Hiển Tôn hoàng đế cùng với tiền hiền Cẩm Phô là Huỳnh, Lê, Nguyễn, theo Trường Giang mà lập giới hạn làm địa bạ, để tên tuổi đến đời sau, đến nay đã được vài trăm năm truyền 14 đời, khoa hoạn trong làng cũng có người đỗ đạt làm cao, suy cho cùng đó không phải là từ cái gốc mà ra sao? Như vậy, người trước vun trồng kẻ sau nối tiếp công đức rộng lớn, không đợi khắc vào bia đá mà tán dương, nếu không trùng tu sợ về sau quên mất...”