Tại Hội An, hầu hết các sắc phong thần được thờ tự, bảo quản tại đình, lăng, miếu; sắc phong cho người có công được bảo quản, lưu giữ ở nhà thờ tộc họ hoặc tại các gia đình.
Ở Hội An hiện còn lưu giữ khá nhiều bản gốc sắc phong thần, tiêu biểu nhất là 17 sắc phong của làng Để Võng được lưu giữ tại nhà thờ tộc Nguyễn Viết, phường Cẩm Châu. Trong bài viết này chúng tôi xin được thông tin bộ sắc phong này đồng thời phiên âm và dịch nghĩa giới thiệu một số sắc phong tiêu biểu.
Về sắc phong làng Để Võng
Làng Để Võng nay chủ yếu thuộc khối Sơn Phô I, phường Cẩm Châu, thành phố Hội An. Làng/xã Để Võng là một trong những làng/xã người Việt hình thành sớm ở Hội An.
Qua thông tin ghi trong Quảng Nam xã chí, cũng như căn cứ vào văn bia thủy tổ tại nhà thờ tộc Nguyễn Viết, có thể xác định bước đầu làng/xã Để Võng hình thành vào khoảng giữa thế kỷ XVII, thời vua Lê Thần Tông trị vì (khoảng thời gian trước 1653).
Về hành chính, theo địa bạ làng Để Võng năm Gia Long thứ 13 (1814) thì xã Để Võng thuộc tổng Thanh Châu, thuộc Võng Nhi, phủ Điện Bàn. Dưới thời vua Đồng Khánh, xã Để Võng thuộc tổng Thanh Châu, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Để Võng là một trong 18 làng xã của thị xã Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam.
Từ năm 1946, sau khi bầu cử Quốc hội khóa I thành công, thực hiện chủ trương hợp nhất của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, thị xã Hội An chia làm 8 khu phố, làng Để Võng thuộc Khu 5 - Nguyễn Bính.
Tháng 3/1951, Hội An chia thành 5 đơn vị hành chính mới, làng Để Võng thuộc Khu Bắc.
Tháng 7/1956 đến năm 1962, làng Để Võng thuộc xã Cẩm Châu, quận Điện Bàn (theo Hồ sơ số 3071, Danh sách các quận, xã, ấp và dân số tại tỉnh Quảng Nam năm 1962, tài liệu Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – thành phố Hồ Chí Minh).
Từ năm 1976 đến nay, Để Võng là một trong những làng/khối thuộc xã/phường Cẩm Châu, thị xã/thành phố Hội An.
Qua quá trình sưu tầm tư liệu, chúng tôi đã tiếp cận được 17 sắc phong gốc của làng Để Võng xưa, hiện đang được bảo quản tại nhà thờ tộc Nguyễn Viết, khối Sơn Phô I, phường Cẩm Châu.
Dựa vào các sắc phong khảo sát được tại thực địa, cũng như dựa vào Quảng Nam xã chí (Quảng Nam xã chí, ký hiệu AJ23/7, tr.140-143) và Quảng Nam tỉnh tạp biên (Quảng Nam tỉnh tạp biên, ký hiệu A3116a/4, tr.27-46), phần ghi chép về làng Để Võng cho thấy, số lượng sắc phong làng Để Võng hiện lưu tại nhà thờ tộc Nguyễn Viết và ghi chép trong 2 nguồn tư liệu trên là tương đồng nhau.
Theo thống kê cho thấy, trong 17 sắc phong, có 12 sắc phong riêng cho từng vị thần, còn lại 5 sắc phong chung cho các vị thần. Thần có sắc phong nhiều nhất là Thái Giám Bạch Mã với 8 lần, Thành Hoàng với 7 lần, Tứ Dương tôn thần, Bích Sơn tôn thần, Thái Giám Mộc Thọ, Ngũ Hành tiên nương, Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương, mỗi thần 2 lần sắc phong.
Về niên đại, sắc phong có niên đại sớm nhất là năm Minh Mạng thứ 7 (1826) và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924). Nhìn chung, các sắc phong làng Để Võng được bảo quản tương đối nguyên vẹn.
Qua kết quả xử lý thông tin, các sắc phong cơ bản có sự thống nhất về hình thức, nội dung, thể thức. Qua đối chiếu, các sắc phong của làng Để Võng đều thuộc thời Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam. Đây là những sắc phong thần, chúng đều được viết trên giấy long đằng màu vàng, kích thước bình quân dài 130cm, rộng 50cm, bên ngoài có viền hồi văn chữ vạn hoặc hoa thị, rộng 2,7 - 3cm, lòng giấy mặt chính vẽ long vân (rồng mây), chữ thọ, phượng hàm thọ (chim phượng ngậm chữ thọ), mặt sau vẽ tứ linh, chữ thọ, quạt lá và hòm sách…
Về nội dung, các sắc phong làng Để Võng cơ bản có 3 phần. Phần mở đầu là chữ “Sắc” hoặc “Sắc chỉ”, tiếp đó là tên của vị thần hoặc tên của địa phương và tên của vị thần. Phần giữa là lý do, mỹ tự, phẩm trật ban phong. Phần cuối là chuẩn cho địa phương y cựu phụng sự (theo lệ cũ mà thờ tự) để dụng đáp thần hưu (đền đáp ơn thần) hoặc “dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển”(ghi lại ngày vui của đất nước để làm rõ điển lệ), hoặc “thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân” (thần hãy ra sức bảo vệ dân ta), và kết thúc bằng hai chữ “Khâm tai”.
Về giá trị lịch sử - văn hóa, sắc phong thần làng Để Võng là một loại tư liệu đặc biệt có giá trị về nhiều phương diện. Về lịch sử chúng là những tư liệu gốc, quý giá, chứa đựng nhiều thông tin chính xác, chân thực về tổ chức bộ máy chính quyền triều Nguyễn, sắc phong thần cũng cung cấp tư liệu chính xác, có giá trị để xác định việc thực hành tín ngưỡng ở các cộng đồng làng xã, nhất là tín ngưỡng thờ tự các vị thần bảo hộ của địa phương. Qua đó thể hiện sự thành kính, biết ơn các vị thần đã che chở cho cộng đồng dân cư khỏi thiên tai, dịch bệnh; làm ăn, buôn bán được tài lộc…
Đặc biệt, những bản sắc phong này là tài sản vô giá của cộng đồng làng Để Võng do tiền nhân để lại, qua đó góp phần nâng cao lòng tự hào, cũng như vai trò, trách nhiệm của các thế hệ sau trong việc gìn giữ, bảo quản và phát huy bản sắc văn hóa địa phương. Ngoài ra, các sắc phong của làng Để Võng còn cung cấp những thông tin quan trọng về kỹ thuật chế tác và nghệ thuật trang trí trên giấy truyền thống, đặc biệt là loại giấy long đằng, giấy dó dùng cho sắc phong, về thư pháp học, ấn triện học… dưới thời nhà Nguyễn.
Một số sắc phong tiêu biểu của làng Để Võng
Trên cơ sở các sắc phong sưu tầm được, chúng tôi lựa chọn dịch nghĩa một số sắc phong tiêu biểu cho thần Thành Hoàng, Thái Giám Bạch Mã, Ngũ Hành tiên nương, Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương.
Sắc phong Thành Hoàng năm Minh Mạng thứ 7 (1826), tạm dịch như sau: Sắc cho thần Thành Hoàng của làng Để Võng, giúp nước cứu dân công đức hiển hiện rõ ràng, cho phép dân xã được phụng thờ. Nay Thế Tổ Cao Hoàng đế ta thống nhất non sông, người và thần đều vui mừng bởi cơ đồ vững mạnh, nhớ đến ơn thần hiển hiện to lớn mà gia tặng cho thần là Bảo an, nhưng vẫn chuẩn cho xã Để Võng thuộc Võng Nhi được phụng thờ như cũ, để thần bảo vệ che chở dân ta. Kính thay!.
Sắc phong Thái Giám Bạch Mã năm Minh Mạng thứ 7 (1826), tạm dịch như sau: Sắc phong cho thần Thái Giám Bạch Mã, xưa nay giúp nước cứu dân, công đức hiển hiện rõ ràng nên được xã dân phụng thờ. Nay vua ta là đức Thế Tổ Cao Hoàng đế đã thống nhất non sông, thần và người đều vui mừng bởi cơ đồ vững mạnh, nay nhớ đến ơn thần mà gia tặng mỹ tự là Lợi vật. Nhưng vẫn chuẩn cho xã Để Võng thuộc Võng Nhi được phụng thờ như cũ, để thần che chở, bảo vệ dân ta. Kính thay!.
Sắc phong Ngũ Hành Tiên nương năm Duy Tân thứ 5 (1909), tạm dịch như sau: Sắc cho thần Ngũ Hành Tiên nương tôn thần, Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương tôn thần được xã Để Võng phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam thờ phụng, thần từng giúp nước cứu dân linh ứng hiển hiện, trước nay chưa được ban cấp tặng sắc. Nay Trẫm nhớ đến ơn thần, mà gia tặng mỹ tự thần Ngũ Hành tiên nương trứ phong là Tán hóa Mặc vận Thuận thành Hòa tự Tư nguyên Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần, thần Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương trứ phong là Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang huy Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần, đặc chuẩn cho thần được thờ phụng như cũ, để thần bảo vệ che chở dân ta. Kính thay!.
Sắc phong Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương năm Khải Định thứ 9 (1924), tạm dịch như sau: Sắc chỉ cho xã Để Võng phủ Điện Bàn tỉnh Quảng Nam trước nay thờ tự thần Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang huy Dực bảo Trung hưng Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương thượng đẳng thần, Tán hóa Mặc vận Thuận thành Hòa nhu Tư nguyên Trang huy Dực bảo Trung hưng Ngũ Hành tiên nương thượng đẳng thần, có công trong việc giúp nước cứu dân, đã từng linh ứng, thần được ban cấp tặng sắc chuẩn cho phụng thờ. Nay nhân dịp đại lễ mừng thọ 40 tuổi của Trẫm, nên ban bửu chiếu đàm ân lễ long đăng trật cho thần, đều được đặc chuẩn phụng thờ theo điển lễ thờ tự quốc gia. Kính thay!.
Có thể nói, sắc phong làng Để Võng ở Hội An là nguồn tư liệu gốc có giá trị về nhiều mặt, góp phần cung cấp những thông tin quan trọng về tín ngưỡng thờ tự trong các làng xã ở Hội An trước đây. Đây được xem là nguồn tài liệu tham khảo có tính chân xác, độ tin cậy cao trong nghiên cứu các loại sắc phong thời các vua nhà Nguyễn, qua đó bổ khuyết khoảng trống của chính sử cũng như hoạt động nghiên cứu lịch sử Hội An nói riêng, Việt Nam nói chung.
Việc lưu giữ và bảo quản các sắc phong còn nguyên vẹn này, thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của gia đình, tộc họ trong việc bảo quản tài sản vô giá của tiền nhân để lại, qua đó tăng cường vai trò, trách nhiệm của thế hệ sau trong việc sao chụp, số hóa, bảo quản và phát huy lâu dài nguồn tư liệu đặc biệt này.
Tác giả: Hồng Việt - Phước Tịnh - Thị Lưu
Nguồn tin: baoquangnam.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn